Hoạt động kinh tế

- Về kinh tế tự nhiên
Người Sán Dìu cư trú trên một dải bán sơn địa rộng lớn có rừng, có núi đồi, có đồng bằng và biển hồ. Việc thai thác lâm thổ sản, săn bắn, đánh bắt, lấy măng, lấy củi, hái các loại quả, nấm và các loại cây thuốc dược liệu quý... đã cung cấp những nhu cầu thiết yếu cho đời sống của đồng bào.
- Về kinh tế sản xuất
Trồng trọt: Trong sản xuất nông nghiệp đồng bào cũng có nhiều loại ruộng như: Ruộng cao (cao thén) trồng lúa nương, ngô, sắn...; Ruộng đất pha cát (láy pha sa) trồng khoai lang, lạc, khoai sọ, củ từ...; Ruộng thấp (láy thén) cấy lúa nước, và các loại hoa màu; Ruộng nương (láy xé) trồng lúa nương, ngô, kê, sắn và mía...; Ruộng lầy thụt (sim phang thén) chỉ cấy được một vụ lúa trong năm, còn các vụ khác như: mùa hè cấy rau muống, mùa đông cấy rau cải soong, rau cần…
Để chăm bón cây trồng tốt cho năng suất cao, đồng bào đã biết tận dụng các loại phân từ vật nuôi và cây phân xanh trên rừng. Các nông cụ trong sản xuất như chiếc cày (láy), bừa (phá), chiếc cào bàn (thui phá), chiếc vằng gặt lúa (vố lém)...
Chăn nuôi: Các loại gia súc như: nuôi lợn, nuôi trâu, bò, nuôi các loại gia cầm như gà, vịt, ngan, ngỗng... Chăn nuôi theo phương thức hộ gia đình, phương pháp chăn nuôi chủ yếu là chăn thả tự nhiên. Đồng bào còn biết tận dụng mặt nước ở ao, hồ, biển để nuôi các loài thuỷ hải sản như: Ao hồ nuôi các loại cá nước ngọt... thức ăn được đồng bào tận thu bằng cách cắt cỏ tự nhiên, vớt bèo, lá mía... Ở biển, đồng bào nuôi cá lồng, ngọc trai, tôm... Những nơi ở đồi núi đồng bào nuôi ong để lấy mật.
Các nghề thủ công, phổ biến nhất là nghề đan lát. Ngoài ra, đồng bào còn một số nghề thủ công khác như: nghề rèn, nghề dệt sợi, nghề mộc. Những nghề này ít người biết làm, nên các sản phẩm làm ra chỉ để cung cấp trong cộng đồng

Văn hoá tinh thần
- Tín ngưỡng

Tín ngưỡng của đồng bào Sán Dìu rất phong phú. Với thế giới quan đầy sinh động, đồng bào tin theo thuyết “vạn vật hữu linh”, tam giáo đồng nguyên (Nho - Phật - Đạo)... Đồng bào quan niệm rằng: Con người có hai phần đó là linh hồn và thể xác. Thể xác là cái tạm thời, khi chết thể xác mất đi, chỉ có linh hồn tồn tại vĩnh cửu. Do vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được đồng bào coi trọng hàng đầu.
Ngoài thờ cúng tổ tiên ra, người Sán Dìu còn thờ thần cửa, thổ công, vua bếp. Đây là những vị thần bảo hộ, không cho các ma quỷ vào trong nhà, phù trợ cho các thành viên trong gia đình được mạnh khoẻ. Những gia đình có con nhỏ hay người trong thời kỳ sinh nở đều có bàn thờ mụ (Pha công, pha mủ).
Đồng bào Sán Dìu có khái niệm “cúi” (ma). Khái niệm này dùng để chỉ chung các thần, thánh, tổ tiên và ma quỷ dữ, nhưng cũng có sự phân biệt rõ ma lành (hén cúi) là thần thánh, Phật, tổ tiên... và ma dữ (thoọc cúi) là cô hồn, người chết không nơi thờ phụng.
Những người làm thầy cúng thờ Phật Quán Thế Âm, thờ Tam Thanh và thờ tổ sư. Bàn thờ Phật và bàn thờ Tam Thanh được đặt một nơi riêng nhưng phải cao hơn bàn thờ tổ tiên, còn bàn thờ tổ sư được đặt ngang hàng với bàn thờ tổ tiên.
Ở người Sán Dìu có sự dung hợp của Tam giáo (Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo). Đồng bào tin vào thuyết luôn hồi, thuyết nhân - quả, thuyết định mệnh... của giáo lý nhà Phật. Những người làm thầy cúng theo phái Mật tông, sử dụng những phép thuật huyền bí để cúng bái, làm phép, chữa bệnh...

Văn hoá tổ chức cộng đồng và vật chất. tộc người Sán Dìu.
- Làng bản, nhà cửa

Làng bản của người Sán Dìu chủ yếu tọa lạc ở những sườn đồi hay chân đồi, mỗi làng có khoảng vài chục nóc nhà, nhiều có thể lên tới hàng trăm hộ. Nơi ở lý tưởng là vùng bán sơn địa, nơi đó trước là cánh đồng, sau lưng là đồi rừng, sông suối để tiện cho việc cấy lúa và trồng hoa màu ở những đồng bằng thung lũng nhỏ hẹp.
Người Sán Dìu gọi nhà là “ộc”, nhà ba gian hai chái, với bộ sườn kết cấu đơn giản. Vì kèo thường là năm cột, kèo đơn bằng gỗ nguyên cây, xà và kèo gác lên ngoãm đầu cột, rồi buộc lại với nhau bằng dây lạt hay dây rừng. Mái nhà được lợp bằng rơm rạ, cỏ tranh... xung quanh nhà được dựng nan tre rồi vắt rơm trộn bùn thành tường vách nhà. Làm xong nhà, gia chủ tổ chức ăn mừng nhà mới (Dịp sin ộc). Trong ngày này gia chủ làm lễ cúng tổ tiên, mời tổ tiên về ở nhà mới, đồng thời thiết đãi họ hàng nội, ngoại, bạn bè và làng xóm đã giúp sức trong quá trình dựng nhà. Một người lớn tuổi mang lửa, hạt giống... vào nhà và trong ba ngày không được để lửa tắt. Đây cũng là dịp để trai gái trong làng hát Soọng cô mừng tân gia.

- Ẩm thực
Lương thực hằng ngày của đồng bào là gạo tẻ, chủ yếu được nấu thành cơm và cháo loãng. Ngoài ra, gạo tẻ được giã thành bột dùng để làm bánh cuốn, bánh đúc... Gạo nếp thường được dùng trong những dịp lễ tết, nếp dùng để thổi xôi và cũng được giã thành bột để làm bánh Bạc đầu, bánh Tà loòng ệt, bánh Trôi...

Thức ăn hằng ngày của người Sán Dìu rất đơn giản, cơm + rau là thành phần chủ đạo trong cơ cấu bữa ăn, các loại thịt, cá được thay đổi từng ngày xong không thường xuyên. Thức ăn được chế biến rất phong phú từ luộc (sap), xào (xáo), hấp (hip) cho đến nướng (chác), rán (hoc)... tạo ra sự tinh tế trong cách chế biến và thưởng thức món ăn của đồng bào. 
Văn hoá ẩm thực còn thể hiện sâu sắc hơn trong các ngày lễ tết của đồng bào, với những món ăn đậm bản sắc dân tộc như: Khau nhôộc, thịt thính (nhôộc trụ chạo), thịt ướp chua (diẹp nhôộc), bánh là ngải (ngòi bảnh), xôi nhuộm màu (ngủ sệch phan), bánh chưng gù, bành tà loòng ệt...
Về thức uống, đồng bào có nhiều loại thức uống khác nhau. Đầu tiên phải kể đến là rượu, rượu cũng có rượu cất (chuý chíu) và rượu nếp cái (phan chíu). Các thức uống hằng ngày được đồng bào ưa dùng là nước cháo loãng (chốc ím), nước chè xanh, nước lá vối…
Về hút thuốc và ăn trầu. Đàn ông Sán Dìu hút thuốc lào (Sôc en), phụ nữ ăn trầu như một thói quen, họ ăn trầu cũng là để nhuộm răng.

- Trang phục
Trước đây, nam giới thường mặc hai chiếc áo, áo trong màu trắng, áo ngoài có màu nâu hoặc đen. Hai áo này chỉ khác nhau về màu sắc và khích thước, áo trong ngắn hơn áo ngoài, còn kiểu dáng giống nhau. Áo năm thân, cổ cao, có cài khuy bên phải, tay áo hẹp, áo chỉ dài quá đầu gối một chút. Quần màu nâu hay đen, cắt theo kiểu chân què, cạp lá tọa, thắt lưng màu chàm. Thường ngày, trong lao động thì đi chân trần, khi đi xa, đi chơi mới đi dép quai ngang hay đi giày.

Bộ nữ trang phục của đồng bào gồm có khăn đội đầu, áo trong, áo ngoài, dây lưng, váy, dây lưng, và xà cạp. Phụ nữ Sán Dìu vấn tóc, đội khăn hình mỏ quạ giống người miền xuôi. Áo trong ngắn hơn áo ngoài, áo trong màu trắng, áo ngoài màu chàm nhưng cùng một kiểu dáng đó là loại áo tứ thân, cổ cao, nẹp trơn không có khuy, bên trong nẹp đáp thêm vải màu trắng để khi mặc lộ ra ngoài. Cách mặc cũng có sự phân biệt giữa tuổi tác, người trẻ mặc áo vạt bên phải vắt phủ lên vạt áo bên trái, sau khi mặc chiếc nẹp bên trong được lộn ra, tạo thành đường chéo nhau từ cổ xuống ngực. Người già mặc áo vạt trái vắt phủ lên vạt bên phải rồi dùng thắt lưng hoa lý, tím hay đỏ thắt lại. Chiếc váy của phụ nữ Sán Dìu rất độc đáo, váy chỉ là 2, 3, 4, hay 5, 6 mảnh vải được đính trên một xà cạp, tạo cho mảnh nọ chờm trên mảnh kia khoảng 10 đến 15 cm. Do vậy, váy nhiều mảnh này có cái tên rất thú vị mang tên váy lá (xệch khun). Xà cạp (kiọc sen) bằng vải màu đen hoặc màu chàm.
Đồ trang sức của đồng bào gồm vòng kiềng, khuyên tai, nhẫn được làm bằng bạc. Đặc biệt phụ nữ Sán Dìu có chiếc túi trầu (loi thoi), hình múi bưởi, được may và thêu thùa rất công phu.

- Phương tiện giao thông
Người Sán Dìu chủ yếu là đi bộ, bên cạnh đó đồng bào có chiếc xe quệt. Có thể nói đây là chiếc xe vạn năng, nó đã giải phóng khá lớn sức lao động, đặc biệt là gồng gánh. Chiếc xe quệt do trâu kéo, có thể đi trên mọi địa hình trên rừng, xuống đồng... Kết cấu của xe rất đơn giản, cũng giống như chiếc “xe bò”, có càng, có thùng, nhưng điều đặc biệt ở xe quệt là không có bánh, mà chỉ có hai cái càng nâng một cái khung lết trên mặt đất, xe quệt gần giống xe trượt tuyết ở phương Tây. Cùng với xe quệt đồng bào còn sử dụng trâu, bò để chuyên trở các nông sản và các lâm thổ sản về nhà.

CALL: 0914425788 Zalo